Khi tiếng súng lặng xuống, chiến tranh khép lại trên trang sử, nhiều người nghĩ rằng mọi thứ đã kết thúc. Nhưng chiến tranh không chỉ lấy đi mạng sống. Nó để lại sau lưng những cơ thể không còn lành lặn, những ký ức không thể lành sẹo và những mảnh đời chưa bao giờ trở lại được như trước.
Đi qua hơn 50 năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, Việt Nam vẫn còn hàng triệu nạn nhân chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chiến tranh. Theo Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA), cả nước hiện có hơn 3 triệu người phơi nhiễm chất độc da cam, trong đó có hàng chục nghìn người là cựu chiến binh bị mất sức lao động, sống đơn độc, không còn nơi nương tựa.
Hiện nay, ở Việt Nam đã ghi nhận hậu quả của chất độc da cam di truyền sang thế hệ thứ tư, và hơn 150000 nạn nhân là thế hệ thứ hai - là con, là cháu của các nạn nhân trực tiếp của chất độc da cam. Từ khi sinh ra, họ đã không được lành lặn như bao đứa trẻ khác. Có em không thể tự đi lại, có em không nói được thành lời, nhưng bên trong tâm hồn nhỏ bé ấy lại là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng được yêu thương và được hòa nhập.
Tại xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Nội có một nơi mang tên Làng Hữu nghị Việt Nam, nơi đón nhận và chăm sóc hàng trăm mảnh đời như thế. Dưới sự quản lý và chỉ đạo của Trung ương Hội Cựu chiến binh Việt Nam, cũng như quan tâm, hỗ trợ tích cực của Đảng, Nhà nước, các ban, ngành, địa phương và đặc biệt là những tấm lòng hảo tâm từ bạn bè quốc tế, Làng đã và đang thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị hàng đầu là chăm sóc y tế, điều dưỡng, phục hồi chức năng cho những nạn nhân chất độc da cam. Những cựu chiến binh từng cầm súng giữa lửa đạn bảo vệ non sông, nay lặng lẽ sống bên những đứa trẻ mang trong mình di chứng của chiến tranh. Không cùng huyết thống, nhưng cùng mang dấu vết của một thời đạn bom, họ gắn bó với nhau bằng sợi dây đồng cảm - thứ tình thân được dệt nên từ ký ức và nỗi đau của một cuộc chiến đã lùi vào dĩ vãng.
"Điều để lại trong tôi những ký ức sâu đậm và đầy xúc động chính là khoảnh khắc được gặp gỡ các cháu nhỏ, những em bé không may mang dị tật do ảnh hưởng của chất độc hóa học trong chiến tranh. Dù mang trong mình nỗi đau về thể chất, các cháu vẫn rất ngoan ngoãn, mến khách và luôn muốn được gần gũi với các bác, các ông để lắng nghe những câu chuyện về quê hương, về một thời đã qua. Sự hồn nhiên và nghị lực sống của các cháu khiến tôi thực sự xúc động."
Ông Trịnh Trọng Tịnh (xã Dân Lý, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa), một cựu chiến binh đang an trí tại Làng Hữu nghị bồi hồi chia sẻ.
Tại Làng Hữu nghị Việt Nam, vẫn còn những người lính năm xưa đang phải đối mặt với những di chứng nặng nề của chiến tranh. Nhiều người trong số họ không thể tự chăm sóc bản thân, thường xuyên bị ám ảnh bởi ký ức cũ, tinh thần hoang hoải như vẫn mắc kẹt trong những ngày tháng bom đạn, một thời quá khứ chưa thể khép lại. Bên cạnh các Cựu chiến binh, có hàng trăm em nhỏ là những thế hệ sau của nạn nhân từng bị phơi nhiễm. Dù các em chưa đi qua khói lửa của chiến tranh, không nghe thấy tiếng súng, nhưng các em phải gánh chịu hậu quả nặng về mà chất độc da cam để lại.
Hai thế hệ khác nhau, nhưng lại mang trong mình chung một nỗi đau. Họ là minh chứng sống cho những di chứng chiến tranh còn đó. Nhưng từ những nỗi đau ấy, cũng đã và đang diễn ra một hành trình chữa lành vết thương, hành trình của lòng nhân ái.
Làng Hữu nghị Việt Nam không chỉ đơn thuần là một ngôi làng để ở, mà đó còn là nơi để mọi người yêu thương nhau, hàn gắn lại những nỗi đau, bước tiếp sau những mất mát.
Hòa bình không phải là đoạn kết, mà là một hành trình chữa lành. Và ở Làng Hữu Nghị, hành trình ấy diễn ra mỗi ngày - trong những buổi vật lý trị liệu, trong ánh mắt lặng lẽ của các cựu binh, và trong tiếng cười lơ ngơ của những đứa trẻ chưa biết mình đang lớn lên thay ai gánh phần đau đớn.
Chiến tranh có thể kết thúc trên chiến trường, nhưng trong lòng những cựu chiến binh và những đứa trẻ ấy - vết thương vẫn còn nguyên.
Trong một buổi sớm đẹp trời ở Hoài Đức, Hà Nội, tại Làng Hữu Nghị Việt Nam, chúng tôi được có dịp bắt gặp những tiếng cười rộn vang giữa sân, tiếng chổi quét lá, tiếng máy khâu nhịp nhàng tạo nên một nhịp sống yên bình. Nơi đây, cuộc sống của những người cựu chiến binh và nạn nhân chất độc da cam diễn ra một cách đều đặn và bình dị.
Dưới cùng một mái ấm tại Làng Hữu Nghị, những đối tượng là nạn nhân chất độc da cam thuộc nhiều lứa tuổi, gặp nhiều tình trạng được nuôi dưỡng, chăm sóc y tế, phục hồi chức năng, học văn hóa, học kỹ năng sống và học nghề. Anh Nguyễn Công Hậu, quê ở Ninh Bình, là một trong những cư dân gắn bó lâu năm với Làng từ những năm 2010 đến nay. Khuôn mặt anh vui tươi khi nhắc về một ngày thường nhật: "Buổi sáng anh quét sân, rồi đi học may, học thêu. Anh thích học thêu." Qua lời kể, có thể thấy anh Hậu là một học trò chăm chỉ và tích cực của lớp dạy nghề thêu. Niềm hân hoan cũng hiện rõ trong đôi mắt sâu của anh khi kể về những hoạt động vui chơi, học tập, sinh hoạt cùng các bạn khác. Với anh Hậu, từng ngày trôi qua không chỉ là được sống vui, sống khỏe mà còn sống một cách có ích.


Còn anh Nguyễn Đức Học, đến từ Thạch Thất, Hà Nội, cũng tìm thấy sự thoải mái, thân quen tại nơi này sau hơn một năm gắn bó: "Ở đây anh thấy vui, được giao lưu với các bạn.". Khi được hỏi "Cơm các cô nấu có ngon không anh", anh Học đã đáp lại với tiếng cười giòn tan: "Ngon lắm". Ở Làng, anh và các bạn được chăm lo từng bữa ăn dinh dưỡng, từng giờ chơi, giờ học. Anh Học đã vừa gãi đầu vừa chia sẻ thật lòng: "Anh thích hát, nhưng hát bây giờ xấu hổ lắm". Đằng sau những niềm vui tưởng chừng giản đơn là cả một hành trình không dễ dàng - mà chính anh, với những khó khăn trong giao tiếp, cũng phải nhờ nhiều gợi ý mới có thể kể thành lời.
Làng Hữu Nghị Việt Nam có thể coi là điểm tựa, nơi dừng chân của các cựu chiến binh, những người từng đi qua khói lửa chiến tranh và giờ trở về với tuổi già và bệnh tật. Thông thường, Làng sẽ đón tiếp các cụ theo đoàn, một đoàn khoảng 20 người từ các tỉnh thành miền Trung trở ra miền Bắc, được chính quyền địa phương cử đến điều dưỡng tại Làng. Không giấu xúc động, ông Lê Đức Phán, một người cựu chiến binh đã tham gia chiến đấu chống Mỹ thành cổ Quảng Trị kể về lần đầu đến làng: "Ban Giám đốc và cán bộ nhân viên của Làng vô cùng quan tâm, chu đáo, chăm sóc sức khỏe và ăn uống cho các cụ rất chu toàn". Trong từng câu nói của ông, có thể cảm nhận được nhịp sống bình dị mà thân quen ở Làng. Mỗi ngày trôi qua trong nếp sinh hoạt điều độ: vệ sinh cá nhân, ăn uống đủ chất, rèn luyện sức khỏe bằng các bài tập trị liệu.
Ông Phán cũng bộc bạch rằng: "Anh em cùng nhau đến Làng Hữu Nghị Việt Nam đều rất phấn khởi, tình cảm, vui vẻ và vinh dự". Cảm giác ấy có lẽ đã cho thấy sự chuyển tiếp giữa quá khứ đau thương từ chiến tranh và niềm tin vào hiện thực tươi sáng của những người đồng đội. Ngay cả những hoạt động tưởng chừng xa lạ như chụp ảnh, quay video, các cụ cũng được cán bộ hướng dẫn tận tình, để có thể lưu giữ những khoảnh khắc ý nghĩa, gửi về cho gia đình hoặc để mai này nhìn lại một thời an yên trong mái nhà chung đầy ắp yêu thương.
Chính những lời nhận định đó của những người đã đi qua chiến tranh đã chứng minh rằng Làng không chỉ mang đến sự chăm sóc y tế, trợ giúp vật chất, mà còn là sự đồng hành, sẻ chia về tinh thần. Có lẽ những kỉ niệm khi tham gia điều dưỡng tại Làng sẽ trở thành hồi ức không bao giờ quên mà những người như ông Phán sẽ hoài niệm nhớ mãi trong cuộc đời.
Sau khi chia sẻ phần mình, ông có lời căn dặn với thế hệ trẻ: "Mong rằng các cháu lớn lên có điều kiện học hành thì đem hết sức mình học cho tốt, sánh vai với cường quốc, xây dựng tương lai đất nước giàu, đẹp." Đặc biệt, ông cũng khuyến khích mọi người hãy trở lại Làng nhiều để thăm hỏi, động viên cựu chiến binh và các em bị nhiễm chất độc da cam, san sẻ với họ phần nào niềm vui trong cuộc sống.
Mái nhà chung của Làng Hữu Nghị Việt Nam là nơi không phải ai cũng sẵn sàng bước vào, càng ít người có thể gắn bó lâu dài. Vì công việc ở đây không chỉ là chăm sóc y tế, giáo dục hay nấu ăn mà còn là chữa lành những tổn thương vô hình như mặc cảm, tự ti hay trầm cảm.



Khi chia sẻ về công việc chăm sóc những nạn nhân chất độc da cam, chị Đặng Thị Toàn, người đã gắn bó hơn 10 năm với Làng tâm sự: "Lần đầu vào đây, tôi tưởng mình không làm nổi. Các cháu không như trẻ bình thường". Câu nói ấy ngắt quãng giữa nỗi niềm xúc động bởi có những đứa trẻ không thể tự đi, không thể gọi tên người đối diện, có em gào khóc cả ngày vì không thể biểu đạt cảm xúc bằng lời nói, có em thì lặng thinh đến mức người chăm sóc cũng không dám chắc các em có cảm nhận được thế giới xung quanh hay không. Đó là những khoảnh khắc chị tự hỏi mình: "Liệu mình có đủ sức, đủ kiên nhẫn để làm công việc này lâu dài không?" Nhưng chính những tiếng gọi "cô", gọi "mẹ" đã mang đến cho chị nguồn sức mạnh to lớn để tiếp tục trao yêu thương cho những đứa trẻ ở Làng.
Chị Toàn bày tỏ về việc chăm sóc những người cựu chiến binh: "Các cụ mang những vết thương từ chiến trường, thêm việc tuổi cao sức yếu nên công tác chăm sóc càng cần tỉ mỉ hơn". Quả thật vậy, chị Toàn nghẹn ngào khi nhớ lại những khoảng thời gian ban đầu, phải hướng dẫn nhiều lần cho các cụ vị trí từng vật dụng, từng khu vực, có khi mất từ 7 đến 10 ngày họ mới làm quen được. Những điều dưỡng như chị Toàn đã dùng chính lòng quyết tâm, nhẫn nại, tình yêu thương những con người ấy như là gia đình để vững tâm cống hiến cho công việc tại Làng.
Nếu như những người như chị Toàn lo chuyện ăn mặc, sinh hoạt hằng ngày thì đội ngũ cán bộ y tế trong làng là những người sát sao nhất với thể trạng và cả tinh thần của những thành viên trong Làng. Khi trò chuyện với chị Thanh - nhân viên y tế đã gắn bó với làng suốt 25 năm, chúng tôi càng thấu hiểu hơn với những nỗi đau về nhiều mặt mà những con người ở đây trải qua: "Có những khoảnh khắc, chúng tôi chứng kiến người bệnh rời xa dần. Như em Trung Thị Thanh Bình, quê Quảng Nam. Em bị dị tật bẩm sinh, suy tim. Ngày chuyển em đi viện, tôi vẫn mong có phép màu..." Đối với chị, từng phút từng giây bên cạnh người bệnh, chị đều cố gắng hết sức mang năng lực, nghiệp vụ của bản thân để chăm sóc họ. Hơn tất cả, những y bác sĩ như chị Thanh, họ chỉ suy nghĩ thật đơn giản là giúp được cho các bác hay các em ở đây có những ngày được sống vui vẻ, được nuôi dưỡng khỏe mạnh là quý giá vô cùng. Đó cũng chính là "Trách nhiệm với xã hội, với những người có công với đất nước mình" theo lời chị Thanh.
Câu chuyện của chị Toàn và chị Thanh là tiêu biểu trong rất nhiều câu chuyện của các cán bộ nhân viên tại Làng Hữu Nghị Việt Nam đang nỗ lực hết sức mình để chăm sóc cho những "con người đặc biệt" trong cuộc đời họ, hướng tới cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn mỗi ngày dưới mái ấm tình thương của Làng.
Có thể nói, Làng Hữu nghị Việt Nam đã trở thành một biểu tượng nhân ái có sức lan tỏa rộng khắp cả trong nước lẫn quốc tế.
Là biểu tượng của tính nhân văn và sự tri ân với những cựu chiến binh và nạn nhân chất độc da cam. Mỗi năm, nơi đây đón tiếp hàng trăm lượt khách đến thăm và hỗ trợ: từ các đoàn sinh viên tình nguyện, doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ đến nghệ sĩ, người nổi tiếng,… Từ những phần quà nhỏ, hoạt động giao lưu văn nghệ đến các dự án cải tạo cảnh quan, sửa sang cơ sở vật chất, tất cả đều là cách cộng đồng chung tay chữa lành những vết thương chiến tranh.
Không đứng ngoài dòng chảy ấy, Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương và các tổ chức đoàn thể đã luôn đồng hành với làng từ những ngày đầu thành lập tới nay. Nhiều chính sách hỗ trợ hằng năm giúp Làng duy trì hoạt động ổn định, đồng thời mở rộng hợp tác, kết nối với các mô hình chăm sóc tương tự đã được chỉ đạo thực hiện tại Làng. Theo Nghị định 77/2024/NĐ-CP, từ năm 2024, mức trợ cấp hàng tháng cho người có công với cách mạng được nâng lên 2,789 triệu đồng. Nhờ đó, các cựu chiến binh tại Làng Hữu Nghị được đảm bảo mức sống ổn định, tạo nền tảng duy trì chăm sóc lâu dài. (Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội).
Ở tuyến đầu của hành trình thầm lặng này là Ban quản lý - những con người gắn bó nhiều năm, luôn trăn trở để cải thiện điều kiện sống cho cựu chiến binh và các em nhỏ. Mỗi dịp lễ, Tết, Làng tổ chức các hoạt động sôi nổi như Tết Nguyên đán, Tết Thiếu nhi, giao lưu văn hóa và tặng quà khi có khách ghé thăm. Không gian sinh hoạt ngoài trời ngày càng được nâng cấp với khu vui chơi, sân cầu lông và thiết bị luyện tập thể lực, các trò chơi dân gian…
Không chỉ duy trì hoạt động, Ban Quản lý còn ấp ủ các kế hoạch đẩy mạnh hợp tác quốc tế để lan tỏa thông điệp nhân đạo xa hơn. Như Đại tá Nguyễn Thăng Long - Giám đốc Làng từng chia sẻ: "Việc đón tiếp các đoàn khách quốc tế không chỉ giúp quảng bá hình ảnh đất nước mà còn góp phần tăng cường sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân đạo"
Thực vậy, Ủy ban Quốc tế Làng Hữu nghị Việt Nam cùng các tổ chức cựu chiến binh, bác sĩ, chuyên gia tâm lý, chuyên gia phục hồi chức năng và tình nguyện viên từ nhiều quốc gia đã và đang đồng hành tích cực. Đáng chú ý, trong năm 2024, Làng đón tiếp trên 500 lượt khách quốc tế, gần 60 đoàn của 21 quốc gia, trong đó có nhiều nhân vật cấp cao như Thủ tướng, Bộ trưởng và các nghị sĩ.
Dù chỉ là một phần ngắn trong hành trình của các em nhỏ, nhưng mỗi tình nguyện viên để lại một điều gì đó không thể đong đếm: tình bạn, sự lắng nghe, và góc nhìn về một phần thế giới rộng lớn hơn ngoài kia.
Tình cảm và đóng góp của bạn bè quốc tế dành cho Làng Hữu nghị không chỉ dừng lại ở những chuyến thăm tình nguyện. Nhiều hội thảo quốc tế, hội nghị nhân đạo, các chương trình giao lưu văn hóa và giáo dục đã được tổ chức xuyên suốt hơn 20 năm qua, với sự tham gia của đại diện các tổ chức từ Đức, Pháp, Nhật, Mỹ… Gần đây nhất, năm 2010, trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế "Psychological consequences of victims of chemical poisoning during the Vietnam War" do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội tổ chức, các chuyên gia Mỹ đã tới thăm Làng và thảo luận trực tiếp với lãnh đạo và nạn nhân tại đây, khẳng định vai trò của Làng như một trung tâm nhân đạo quan trọng.
Từ một dự án xuất phát từ lòng trắc ẩn, Làng Hữu nghị dần trở thành nơi kết nối những giá trị nhân đạo vượt khỏi biên giới. Đó cũng là minh chứng cho năng lực của Việt Nam trong việc duy trì và mở rộng các mô hình phục hồi, trị liệu mang tính toàn cầu, đặc biệt với các đối tượng dễ bị tổn thương.
Không ai có thể quay ngược thời gian để xóa đi những mất mát do chiến tranh gây ra. Nhưng những gì đang diễn ra tại Làng Hữu nghị Việt Nam chính là minh chứng mạnh mẽ rằng: sự chữa lành là có thật - khi con người biết yêu thương và không ngoảnh mặt với quá khứ.
Từ những em nhỏ tập viết từng nét chữ đầu tiên bằng đôi tay co quắp, cho đến những cựu binh nay đã tìm lại được tiếng cười sau những năm tháng đau đớn - tất cả họ đang từng ngày được hồi sinh, bằng nỗ lực của biết bao con người âm thầm bên cạnh họ.
Và ở nơi ấy, mỗi một bước đi chập chững của các em, mỗi nụ cười bật lên khi cầm được cây bút, chính là lời nhắc nhở: vết thương nào rồi cũng có thể lành - nếu thế giới vẫn còn những trái tim đồng cảm, sẻ chia.
Bình luận (0)