Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh tăng trưởng tín dụng theo công cụ thị trường và tiến tới bỏ hạn ngạch tín dụng vào năm 2026. Đây là 1 trong những chỉ đạo quan trọng của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Công điện số 104 về tăng cường hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và tổ chức sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2025. Trong cuộc họp báo sáng ngày 8/7, Ngân hàng Nhà nước khẳng định sẽ cân nhắc cẩn thận, xây dựng lộ trình tiến tới bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng.
Hạn mức tín dụng là 1 công cụ điều hành chính sách, hiểu đơn giản là mỗi năm Ngân hàng Nhà nước sẽ giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng, dựa trên hiệu quả hoạt động của ngân hàng đó.
Công cụ này được áp dụng từ năm 2012, khi tín dụng có dấu hiệu tăng nóng, có thời điểm vượt mức 54%, kéo theo sự gia tăng của lãi suất, tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế. Do đó, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để kiểm soát mức tăng trưởng nóng của các ngân hàng.
Ngân hàng Nhà nước cho biết đang từng bước điều chỉnh chính sách, từ năm 2024 đã giao toàn bộ chỉ tiêu tín dụng cho các ngân hàng thương mại ngay từ đầu năm. Sang đến đầu năm nay, đã bỏ hạn mức tín dụng với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, hiện hạn mức tín dụng chỉ còn áp dụng với nhóm ngân hàng trong nước. Để bỏ được hoàn toàn công cụ này, cần nghiên cứu kỹ lộ trình.
Ông Phạm Chí Quang - Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho biết: "Những khó khăn của hệ thống tổ chức tín dụng vẫn còn tồn tại nên để đảm bảo có những giải pháp xử lý một cách tổng thể cần có những biện pháp, chính sách phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam, đảm bảo làm sao vừa tăng cường tính tự chủ của các tổ chức tín dụng, nhưng phải vừa đảm bảo an toàn hệ thống, an ninh kinh tế. Các tổ chức quốc tế khuyến nghị nếu chúng ta phải bỏ room tín dụng thì một trong những biện pháp chính sách mà Ngân hàng Nhà nước cần phải đạt được đấy là tính chủ động rất cao trong việc quyết sách và điều hành lãi suất".
Đối với các ngân hàng thương mại, việc gỡ bỏ hạn mức tăng trưởng tín dụng sẽ giúp họ chủ động xây dựng kế hoạch tăng trưởng từ sớm, phù hợp với thế mạnh của ngân hàng mình. Nhưng bản thân các ngân hàng phải nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực kiểm soát rủi ro nợ sấu.
Bà Phùng Thị Bình - Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Agribank cho hay: "Với một ngân hàng thương mại cũng như các doanh nghiệp, hàng năm vẫn phải xây dựng kế hoạch kinh doanh. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, vừa huy động, vừa cho vay, nên phải xây dựng mức tăng trưởng tín dụng như thế nào để cho nó phù hợp với khả năng tài chính của mình. Ngân hàng Nhà nước có bỏ hạn mức tín dụng đấy thì cũng không phải muốn tăng bao nhiêu thì tăng, tăng trưởng tín dụng cũng phải phù hợp với mức độ hấp thụ của nền kinh tế".
"Ngân hàng Nhà nước có quy định về Thông tư 22 năm 2019 về quy định tỷ lệ an toàn thanh khoản, tỷ lệ huy động sử dụng vốn. Chúng tôi cho rằng đây là các yêu cầu đối với ngân hàng thương mại khi chúng ta huy động, cho vay ra thì đảm bảo tỷ lệ huy động vốn, cả về mặt cơ cấu nguồn vốn ngắn, trung và dài hạn cũng như các tỷ lệ thanh khoản", ông Lê Thanh Tùng - Thành viên Hội đồng quản trị Ngân hàng VietinBank cho biết.
Hiện tại, những ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng tốt, hướng dòng vốn vào đúng các lĩnh vực ưu tiên, và có khả năng quản trị hiệu quả, sẽ được giao hạn mức tăng trưởng tín dụng cao hơn so với các ngân hàng khác.
Điều hành tín dụng theo tín hiệu thị trường

Nếu gỡ bỏ công cụ hành chính, tín dụng sẽ được điều hành theo tín hiệu thị trường. Ảnh minh họa.
Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết đang nghiên cứu phương án, và sẽ sớm có báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ. Nếu gỡ bỏ công cụ hành chính, tín dụng sẽ được điều hành theo tín hiệu thị trường. Tuy nhiên, nếu bỏ công cụ hạn mức, việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ có giải pháp nào để vừa bảo đảm tăng trưởng tín dụng an toàn, lành mạnh, vừa phòng tránh được những rủi ro từ tín dụng tăng nóng như đã từng xảy ra trong quá khứ.
Sau hơn 12 năm áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng, khi sức khoẻ hệ thống ngân hàng đã ổn định. Theo các chuyên gia, đã đủ các công cụ thị trường để kiểm soát an toàn hoạt động của các ngân hàng. Đặc biệt trong bối cảnh các ngân hàng đã đáp ứng được chuẩn mực quản lý rủi ro theo Basel II và tiến tới Basel III.
"Chúng ta có nhiều công cụ thị trường để kiểm soát tăng trưởng tín dụng của hệ thống. Chúng ta đã đặt ra nhiều bộ chỉ số như tỷ lệ thanh khoản, hoặc tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR. Hiện Ngân hàng Nhà nước yêu cầu 8% với các ngân hàng, hiện hầu hết các ngân hàng thương mại đã đáp ứng vượt tỷ lệ này", ông Võ Minh Chiến - Trưởng Bộ phận phân tích, Công ty Chứng khoán VnDirect cho hay.
Ông Nguyễn Xuân Thành - Giảng viên Chính sách công, Đại học Fulbright Việt Nam cho biết: "Để kiểm soát rủi ro tăng trưởng tín dụng nóng thì phải dùng các công cụ hiện đại hơn. Công cụ quan trọng nhất là hệ số an toàn vốn. Đó là 1 hệ số đảm bảo rằng các ngân hàng phải đảm bảo vốn tối thiểu. Nếu anh không đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn thì anh sẽ không được tăng tín dụng quá mạnh. Từ đó tăng quá mạnh giá trị tổng tài sản".
Theo thống kê của các công ty chứng khoán, hiện 90% số ngân hàng có tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu CAR trên 10%, trong đó một số ngân hàng thương mại cổ phần lớn, tỷ lệ này lên tới 15%. Cho thấy chất lượng hoạt động, bộ đệm tín dụng của các ngân hàng đã cải thiện đáng kể. Giới chuyên gia cho rằng, công cụ thị trường đã có, vấn đề là tăng cường kiểm tra, giám sát, đảm bảo tính tuân thủ của các ngân hàng.
Hạn mức tín dụng được sử dụng để kiểm soát mức tăng trưởng nóng của tín dụng. Công cụ này đã có vai trò nhất định trong việc bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Với việc điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng linh hoạt, tín dụng trong nửa đầu năm nay đã tăng trưởng cao nhất trong nhiều năm. Tính đến cuối tháng 6, tín dụng tăng 9,9% so với cuối năm 2024, có hơn 17,2 triệu tỷ đồng dư nợ đang cho vay nền kinh tế.
Trong đó, ngành bán buôn, bán lẻ đang có quy mô dư nợ lớn nhất toàn hệ thống, chiếm gần 23,8% tổng số vốn vay. Tiếp theo là ngành công nghiệp chế biến chế tạo chiếm 10,3%. Dòng vốn tín dụng đang được nắn chỉnh, hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hạn chế chảy vào các lĩnh vực rủi ro như chứng khoán, kinh doanh bất động sản.
Trong Công điện 104, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng yêu cầu ngành ngân hàng phải hướng tín dụng vào các lĩnh vực ưu tiên, các động lực tăng trưởng truyền thống của nền kinh tế (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng) và các động lực tăng trưởng mới (khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…). Đồng thời, tăng cường các biện pháp xử lý nợ xấu; phấn đấu tăng trưởng tín dụng cả năm đạt khoảng 16% so với năm 2024.
Bình luận (0)